Tìm hiểu về NFC – Công nghệ giao tiếp trường gần

Tìm hiểu về NFC – Công nghệ giao tiếp trường gần

NFC là chất xúc tác quan trọng – là công nghệ kết nối không dây có tính ổn định, trực quan khi tương tác 2 chiều giữa 2 thiết bị điện tử.

Điện thoại di động (ĐTDĐ) giúp mọi người có thể liên lạc với bạn bè, gia đình, đồng nghiệp… một cách dễ dàng. Nhưng với ứng dụng NFC (Near-Field Communications – Giao tiếp trường gần), ĐTDĐ sẽ trở nên gần gũi hơn với cuộc sống hằng ngày, chẳng hạn chỉ cần cú chạm đến một ĐTDĐ khác là bạn có thể trao đổi thông tin, mua vé xem hát, trả tiền mua hàng…

Công nghệ NFC

NFC là công nghệ kết nối không dây phạm vi tầm ngắn trong khoảng cách 4 cm, sử dụng cảm ứng từ trường để thực hiện kết nối giữa các thiết bị khi có sự tiếp xúc trực tiếp hay để gần nhau. NFC hoạt động ở dải băng tần 13,56 MHz và tốc độ truyền tải dữ liệu tối đa 424 Kbps. Do khoảng cách truyền dữ liệu khá ngắn nên giao dịch qua công nghệ NFC được xem là an toàn.

NFC đã được phê chuẩn ISO/IEC vào cuối năm 2003. Tháng 3/2004, Nokia, Sony và NXP đã thành lập diễn đàn NFC để phát triển công nghệ này.

Công nghệ NFC ra đời từ sự kết hợp công nghệ nhận dạng không tiếp xúc và những công nghệ kết nối truy cập mới. NFC có 4 định dạng thẻ dựa trên các chuẩn ISO 14443 Type A, 14443 Type B và ISO 18092.

Công nghệ NFC có 2 chế độ truyền dữ liệu: chủ động (active) và thụ động (passive). Trong chế độ thụ động: thiết bị nguồn phát sẽ phát ra từ trường đến nguồn đích. Trong chế độ này, nguồn đích ở trạng thái bị động và chỉ trả lời khi nhận tín hiệu từ nguồn phát. Trong chế độ chủ động: cả thiết bị nguồn phát và thiết bị đích truyền dữ liệu bằng cách tạo ra từ trường riêng.

Hầu hết các ứng dụng hiện nay đều kết hợp cả 2 chế độ chủ động và thụ động, vì sẽ hữu ích cho các thiết bị trong việc truyền dữ liệu giữa các thiết bị không có nguồn điện, ví dụ các thẻ không tiếp xúc.

Một giao dịch diễn ra trên NFC tuần tự theo các bước: phát hiện (Discovery), xác thực (Authentication), trao đổi (Negotiation), truyền dữ liệu (Transfer) và xác nhận từ phía nhận dữ liệu (Acknowledgment).

Đối với các ứng dụng mang tính nhạy cảm cao, chẳng hạn trong trường hợp muốn tăng cường tính bảo mật trong lúc giao dịch, công nghệ NFC có thêm 2 chuẩn mã hóa: chuẩn mã hóa tiên tiến (Advanced Encryption Standard – AES) là thuật toán mã hóa khối được Mỹ áp dụng làm tiêu chuẩn mã hóa; và chuẩn mã hóa dữ liệu Triple DES (Data Encryption Standard) nghĩa là một thông tin được mã hóa DES 3 lần với 3 khóa khác nhau, do đó chiều dài mã hóa sẽ lớn hơn và an toàn hơn.

Các ứng dụng chọn NFC

Công ty nghiên cứu Jupiter cho biết, trên toàn cầu sẽ có khoảng 700 triệu chiếc ĐTDĐ hỗ trợ NFC được tiêu thụ vào năm 2013. Theo công ty nghiên cứu thị trường Strategy Analytics cho biết loại hình thanh toán qua ĐTDĐ tích hợp NFC sẽ đạt 36 tỉ USD trên toàn cầu vào năm nay.

Mục đích chính dùng NFC:
  • Kết nối với các thiết bị điện tử.
  • Truy cập nội dung số, người dùng chỉ cần áp ĐTDĐ lên áp phích quảng cáo (có gắn thẻ sóng rađio – RF tag), lập tức người dùng sẽ nhận được các thông tin liên quan.
  • Giao dịch không tiếp xúc, ví dụ thanh toán, mua vé.

Công nghệ NFC sẽ làm thay đổi thói quen sử dụng thiết bị của mọi người. Theo lí thuyết, có khá nhiều ứng dụng dành cho NFC, chẳng hạn như NFC được sử dụng trong điện thoại di động, camera số, TV, hay hệ thống định vị lái xe để thanh toán hóa đơn những món hàng muốn mua. Khi muốn mua sắm, người dùng có thể thanh toán bằng cách để “sát” thẻ tín dụng vào màn hình máy tính có gắn NFC. Khi chip NFC chứa thông tin thẻ tín dụng trong điện thoại di động, ĐTDĐ của bạn sẽ “biến” thành chìa khóa, vé xem ca nhạc, thẻ lưu thông tin cá nhân… Ngoài ra, người dùng có thể biết thông tin của các chương trình giảm giá, khuyến mãi khi dùng ĐTDĐ có NFC chạm gần các áp phích quảng cáo thông minh hay chụp hình và gửi ảnh đến màn hình, máy tính hay trao đổi danh thiếp qua ĐTDĐ có hỗ trợ NFC. Với ĐTDĐ có tích hợp NFC, bạn có thể mua vé và nhận vé và quét thẻ. Sau đó, bạn có thể kiểm tra số tài khoản của mình ngay trên ĐTDĐ.

NFC mở ra một xu hướng trao đổi dữ liệu theo dạng mạng ngang hàng (P2P). Do NFC hoạt động trên tần số 13,56 MHz nên không ảnh hưởng đến các công nghệ kết nối không dây khác. Khi mạng NFC được kích hoạt, người dùng vẫn có thể sử dụng các công nghệ kết nối khác như Bluetooth, Wi-Fi nếu muốn kết nối tầm xa hơn hay khi cần truyền lượng dữ liệu lớn hơn.

Công nghệ NFC hứa hẹn sẽ tiến xa và có nhiều tiềm năng hơn thẻ tần số vô tuyến (RFID tag), là nhân tố quan trọng trong việc khai thác các dịch vụ tài chính trên thiết bị di động của các nhà khai thác mạng di động (MNO – Mobile Network Operator), các nhà thiết kế ĐTDĐ.

Mặc dù các giao thức của NFC khác nhau, nhưng vẫn được xem là linh động hơn, bảo mật hơn so với RFID hay thẻ thông minh. Sự khác biệt chủ yếu là NFC được tích hợp trong các thiết bị di động để liên kết đến các dịch vụ bán lẻ hay các giao dịch tài chính…

Thêm vào đó, tính năng bảo mật khi truyền dữ liệu là vô cùng quan trọng, do đó NFC trên các thiết bị di động không chỉ đơn giản là một công nghệ hay ứng dụng mà là một “hệ sinh thái”. NFC trên thiết bị di động được xác định là nhân tố quan trọng cho các giải pháp thanh toán của Amex, Mastercard và VISA. Việc triển khai NFC đang thực hiện ở châu Âu, tương tự công nghệ không tiếp xúc đang được triển khai rộng rãi trong hệ thống phương tiện di chuyển công cộng trên khắp thế giới. Một ĐTDĐ tích hợp một thiết bị bảo mật điện tử tạo mật khẩu ngẫu nhiên dựa trên phần cứng, đó có thể là thẻ mạch tích hợp toàn cầu (Universal Integrated Circuit Card – UICC) – là nền tảng lí tưởng cho các ứng dụng NFC. UICC chạy ứng dụng SIM trong mạng GSM và ứng dụng USIM trong mạng 3G/UMTS. Mỗi UICC có thể bao gồm nhiều ứng dụng, cho phép truy cập cả 2 mạng 2G và 3G, lưu danh bạ và chạy những ứng dụng khác.

Đến nay có khoảng 14 nhà khai thác mạng di động đã cùng nhau phát triển các ứng dụng NFC mà thị phần của 14 nhà khai thác này chiếm đến 40% thị trường di động toàn cầu. Đó là Bouygues Tlcom, China Mobile, Cingular Wireless, KPN, Mobilkom Austria, Orange, SFR, SK Telecom, Telefonica Mviles Espaa, Telenor, TeliaSonera, Telecom Italia Mobile (TIM), Vodafone và 3.

Đưa NFC vào ĐTDĐ

Hiệp hội di động GSM bắt đầu dự án đưa công nghệ NFC vào ĐTDĐ từ đầu năm 2006, đồng thời cung cấp tài liệu hướng dẫn kĩ thuật cho các kĩ sư thiết kế. Một thiết bị di động tích hợp NFC gồm thành phần chính sau: ăng-ten được tích hợp vào trong thiết bị di động, chip NFC được tích hợp trong thẻ SIM của ĐTDĐ. Phần mềm trên thiết bị sẽ gồm một số ứng dụng cần dung lượng từ 50 KB đến 200 KB.

Những khó khăn nhất hiện nay của ĐTDĐ hỗ trợ NFC là làm thế nào tạo một “hệ sinh thái” đáng tin cậy nghĩa là có sự hợp tác, kết nối của các nhà thiết kế thiết bị di động, nhà sản xuất, công ty tài chính, nhà bán lẻ… Vì vậy, Hiệp hội GSM đã đề xuất thành lập một tổ chức làm vai trò trung gian giám sát hoạt động phát triển và triển khai công nghệ NFC là Trusted Service Manager (TSM). Nhiệm vụ của TSM là kiểm soát tính bảo mật trong quá trình truyền tải dữ liệu và kiểm soát chu trình vòng đời của ứng dụng trên ĐTDĐ có hỗ trợ NFC. TSM sẽ không can thiệp vào giai đoạn giao dịch trên ĐTDĐ tích hợp NFC của nhà cung cấp dịch vụ. TSM có thể được quản lí bởi một nhà khai thác mạng di động hay liên minh các nhà khai thác di động hay được ủy quyền bởi bên thứ 3.

Một vài điển hình về các sản phẩm hỗ trợ NFC, hãng Renesas đã ra mắt bộ vi điều khiển RF21S có kết hợp chíp đơn NFC hỗ trợ chuẩn ISO/IEC 18092 dành cho các sản phẩm điện tử tiêu dùng như điện thoại thông minh (smartphone), máy tính sổ tay (notebook) và các thiết bị ngoại vi của máy tính. RF21S có chức năng bảo mật nhằm hỗ trợ cho các giao dịch qua thẻ, quẹt thẻ ở các trạm thu phí đường bộ, thẻ ID… Theo kế hoạch RF21S sẽ xuất hiện vào tháng 3 năm 2011 và sản xuất đại trà vào tháng 7 năm 2011.

Một trường hợp khác là công ty thiết bị bán dẫn NXP (trụ sở Eindhoven, Hà Lan) và Trusted Logic trụ sở Paris, Pháp đã giới thiệu giao diện trình ứng dụng nguồn mở đi kèm với NFC trong lớp phần mềm Android. Với tính năng NFC, người dùng ĐTDĐ có thể truy cập các ứng dụng không tiếp xúc để thanh toán qua di động, chia sẻ dữ liệu trực tiếp từ điện thoại Android. Giao diện lập trình ứng dụng NFC nguồn mở của NXP và Trusted Logic hiện đã có tích hợp đầy đủ vào trong khung làm việc (framework) Android.

Ngoài ra, Nhật cũng đã triển khai công nghệ FeliCa không tiếp xúc ở chế độ bị động như là một ứng dụng chính trong thanh toán.

NFC có khác biệt gì so với các công nghệ không dây khác?

▪ Bluetooth là công nghệ không dây được thiết kế để truyền dữ liệu đến các thiết bị như ĐTDĐ, máy tính xách tay và các thiết bị khác trong phạm vi 10 mét.

▪ Công nghệ Wi-Fi dành cho mạng nội bộ (LAN) cho phép mở rộng hệ thống mạng hay thay thế cho mạng có dây trong phạm vi khoảng 100 mét.

▪ ZigBee là công nghệ không dây có khả năng kiểm soát và giám sát các ứng dụng trong ngành công nghiệp và khu nhà ở trong phạm vi hơn 100 mét.

▪ IrDA là chuẩn liên lạc không dây tầm ngắn (<1 mét), truyền dữ liệu qua tia hồng ngoại. Giao diện IrDA thường được dùng ở các máy tính và ĐTDĐ.

▪ RFID là phương thức nhận dạng tự động, cho phép lưu trữ và lấy dữ liệu từ xa dựa vào thẻ nhãn tần số vô tuyến. Thẻ RFID được gắn kèm vào sản phẩm. Hệ thống RFID gồm hai thành phần: thẻ nhãn có gắn chip silicon cùng ăng-ten và phần thứ 2 là bộ đọc giao tiếp với thẻ nhãn và truyền dữ liệu tới hệ thống máy tính trung tâm.

▪ Thẻ thông minh không tiếp xúc (contactless smart card) tích hợp trong chip để truyền dữ liệu đến đầu đọc nhờ công nghệ RFID. Ví dụ, thẻ thông minh truyền dữ liệu qua chuẩn ISO/IEC 14443 và FeliCa trong phạm vi khoảng 10 cm.